Thứ Năm, 17 tháng 11, 2011

QUẾ PHONG- CÁI THUỞ BAN ĐẦU (p2)


*  Mấy tháng liền trời râm mát, có vẻ như trên trời lúc nào cũng nặng trĩu mây. Khó mà xua tan được lớp mây ấy, bởi nó dày đặc từ lòng thung, lên ngọn cây, lởn vởn trên đó, rồi vấn vít lưng chừng núi, rồi che mờ chót đỉnh, và lên cao nữa, kéo giăng giăng khắp cả bầu trời. Tận trưa may ra mới có ngày hé một chút nắng, và chưa ngả chiều thì đã âm u. Rất ít khi có nắng từ sáng tới chiều. Ban đêm sương xuống nhiều, mới đầu thu đã se se lạnh. Mùa đông thì cực lạnh dẫu gió không thổi vi vút như ở đồng bằng. Nhưng sang tháng ba tháng tư lại cũng không thấy gió Lào khô nóng, chỉ thấy nhiều mưa hơn, có khi tầm tã, có khi rả rích hết ngày này sang ngày khác, buồn nẫu ruột. Đấy là mưa tiết tiểu mãn ở thượng nguồn. Còn về tới Quỳ hợp Nghĩa đàn thì trời đã chuyển mùa, nắng chang chang, gió Lào cồn cột thổi, khô không khốc.
Mấy năm tiếp theo vẫn gần như thế, bầu trời Quế phong vẫn rất nhiều mây, và có rất nhiều những ngày râm mát trong năm. Sau này biến đổi khí hậu, rừng bị tàn phá nhiều, Quế phong lại gần giống như Quỳ hợp, Nghĩa đàn, lại hứng chịu gió Lào khô nóng.

* Không có rau gì để ăn, không ai trồng, không có chợ. Quẩn quanh chỉ có măng, hết luộc lại chua, hết chua lại luộc. Thèm rau quá thì ăn ngọn sắn, ngọn tàu bay. Nghe nói ăn mấy thứ này nhiều loảng máu, thì ăn lại măng chua măng luộc. Mẹ tôi tìm đến nhà bà Khánh - quê gốc Yên thành lên Quế phong mang theo nghề làm nồi đất- còn ở phía dưới Tòng mọ nữa, cách trường đúng 1km, xin dây lang về trồng để lấy lá lấy ngọn làm rau. Dần dà nhờ người có dịp về xuôi công tác mua dùm hạt giống rau cải, rau diếp, rồi mua giống rau muống, giống dọc mùng, giống hành tỏi, giống ớt, giống mùi…
Cuối năm 69 cơ quan tư liệu dời lên chỗ mới, mẹ con tôi mua lại cái bếp tư liệu để làm nhà ở và khai khẩn mảnh đất tư liệu nhường lại để làm vườn. Từ đấy có rau, có vườn chuối, vườn dứa, có ao mùng, ao muống, rồi có cây ổi cây đào… Làm ra, ăn không hết thì bán, bán chạy lắm vì chỉ có mỗi một nhà mình trồng rau…

* Đêm đêm ngoài tiếng du di dù dì trên cây ngát cao đùng giữa sân trường, còn có tiếng mang toác đâu đây rất gần, nghe như sau lớp học, nhất là những hôm động trời. Bên phía pu Mai, quãng bản Hăn đi ngược lên, về khuya  thường nghe tiếng koong còi. Tiếng kêu vang, lạ lắm, gợi một cái gì xa xăm bí hiểm. Hỏi trò, chúng bảo coong còi như mèo, nhưng lại như người, thấy lửa thì sấn vào, ngồi khều than ra ăn, ăn được cả than đang đỏ, lưỡi nó cũng đỏ, chờ cho mọi người ngủ thì…
Đêm khuya thanh vắng nghe rõ cả tiếng suối bên pu Mai. Dòng suối ấy chảy về bản Hăn rồi về Tòng mọ rồi xuống bản Bon, bản Tạng, xuống Na cày, Mường hin… Có hôm xuống thăm Nguyên Thiều, về lội qua khe Tòng mọ, chợt nghe tiếng nước ồ ồ, ngẩng nhìn lên phía thượng nguồn, một con nước đang chồm tới như đàn trâu lồng, đục ngầu sủi bọt. Kinh hãi quá, chạy vội sang bờ, nhìn lại hú vía.
                                                       Còn nữa

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét